Thực đơn
Sư_đoàn_23_Bộ_binh_Quân_lực_Việt_Nam_Cộng_hòa Lịch sử hình thànhTiền thân của Sư đoàn 23 Bộ binh là Sư đoàn 5 Khinh chiến của Quân đội Quốc gia Việt Nam[1], được thành lập vào ngày 1 tháng 8 tháng 1955 tại Nha Trang, Khánh Hòa, do Trung tá Nguyễn Thế Như làm Tư lệnh đầu tiên. Sau khi thành lập, Bộ Tư lệnh Sư đoàn di chuyển ra Dục Mỹ, quận Ninh Hòa, Khánh Hòa. Ba tháng sau, Sư đoàn được cải danh thành Sư đoàn 15 Khinh chiến.
Sau khi phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã cho tổ chức lại Quân đội Quốc gia Việt Nam và chính thức đặt tên lại là Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Khối Bộ binh được tổ chức lại thành 4 Sư đoàn Dã chiến và 6 Sư đoàn Khinh chiến.[2]
Đầu năm 1959, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Việt Nam Cộng hòa một lần nữa tổ chức lại các đơn vị Bộ binh.[3] Đầu tháng 4 năm 1959, Sư đoàn 15 được thâu nhận thêm quân số của Sư đoàn 16 Khinh chiến để đổi tên thành Sư đoàn 23 Bộ binh.[4] Cuối năm 1960, Sư đoàn 23 di chuyển Bộ Tư lệnh lên Ban Mê Thuột.
Địa bàn của Sư đoàn phụ trách để bảo an là 4 tỉnh nam cao nguyên Trung phần[6] và 3 tỉnh nam duyên hải Trung phần.[7] Chính do trấn giữ địa bàn này mà về sau, Sư đoàn xưng danh hiệu Nam Bình, Bắc Phạt, Cao Nguyên Trấn. Bản doanh Sư đoàn đặt tại Thị xã Ban Mê Thuột. Ngoài ra, Bộ Tư lệnh Tiền phương sủa Sư đoàn đặt tại Căn cứ Hàm Rồng, Pleiku.
Thực đơn
Sư_đoàn_23_Bộ_binh_Quân_lực_Việt_Nam_Cộng_hòa Lịch sử hình thànhLiên quan
Sư đoàn Sư đoàn 308, Quân đội nhân dân Việt Nam Sư đoàn 312, Quân đội nhân dân Việt Nam Sư đoàn 2, Quân đội nhân dân Việt Nam Sư đoàn 5, Quân đội nhân dân Việt Nam Sư đoàn 316, Quân đội nhân dân Việt Nam Sư đoàn 3, Quân đội nhân dân Việt Nam Sư đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam Sư đoàn 320, Quân đội nhân dân Việt Nam Sư đoàn 325, Quân đội nhân dân Việt NamTài liệu tham khảo
WikiPedia: Sư_đoàn_23_Bộ_binh_Quân_lực_Việt_Nam_Cộng_hòa